Zhè jiù qíguài le. Wǒ tīng shuō zài shíxíng gǎigé kāifàng yǐqián, Zhōngguó rén de shēnghuó shuǐpíng bǐ xiànzài dī duō le, hěn duō dàxuéshēng de jīngjì tiáojiàn yě bù tài hǎo. Tāmen jìrán jīngjì yǒu kùnnán, jiù yīnggāi qù dǎgōng a.
Cái này thì lạ quá. Tớ nghe nói trước khi tiến hành cải cách mở cửa, mức sống của người Trung Quốc thấp hơn bây giờ nhiều, điều kiện kinh tế của rất nhiều sinh viên cũng không tốt. Họ đã có khó khăn về kinh tế, thì nên đi làm thêm chứ ?
那时候大学生不打工的原因很多:
Nà shíhòu dàxuéshēng bù dǎgōng de yuányīn hěn duō:
Lúc đó nguyên nhân sinh viên không đi làm thêm rất nhiều:
Dì yī, guòqù shàng dàxué, xuéshēng bù yòng jiāo xuéfèi. Jiātíng jīngjì kùnnan de xuéshēng hái kěyǐ dédào guójiā de bāngzhù, tāmen chī, zhù jīběn shàng méiyǒu wèntí.
Thứ nhất, trước đây học lên đại học, sinh viên không cần đóng học phí. Sinh viên có kinh tế gia đình khó khăn còn có thể có sự giúp đỡ của nhà nước, họ ăn, ở về cơ bản không có vấn đề gì.
Thứ hai, phụ huynh Trung Quốc thường đều hi vọng bồi dưỡng con cái của mình trở thành sinh viên đại học, hơn nữa họ cho rằng trước khi con cái chính thức làm việc, cho dù bao nhiêu tuổi, cuộc sống đều nên do bố mẹ chịu trách nhiệm.
Bùguò duì chéngshì dì shōurù de jiātíng hé hěn duō nóngmín jiātíng lái shuō, měi nián ná chū nàme duō de qián lái péiyǎng yī gè dàxuéshēng quèshí shì yī gè hěn zhòng de fùdān。
Suǒyǐ, zhèxiē jiātíng de háizi dà bùfèn shì kào xiàng yínháng shēnqǐng dàikuǎn hé dǎgōng zhèng qián lái wánchéng zìjǐ de xuéxí de.
Nhưng đối với gia đình có thu nhập thấp trong thành phố và rất nhiều gia đình nông thôn, mỗi năm dùng nhiều tiền như thế để nuôi một sinh viên, quả thực là một gánh nặng lớn.Vì thế con cái những gia đình này hầu hết đầu dựa vào khoản vay ngân hàng và làm thêm kiếm tiền để hoàn thành học tập của mình.
Có thể là như thế. Các sinh viên đã làm thêm trong kinh nghiệm cuộc sống trong năng lực làm việc thường đều tốt hơn các sinh viên không đi làm thêm.
Đơn vị tuyển dụng tất nhiên sẽ phải suy nghĩ điểm này rồi. Nhưng nếu như sinh viên vì thời gian làm thêm quá nhiều, kết quả học tập kém, đơn vị tuyển dụng cũng sẽ không hoan nghênh.
Dāng wǒ dì yī cì ná dào dǎgōng bàochóu de shíhòu, wǒ dī zhe tóu kàn kàn liǎng zhī pào bái le de shǒu, róu róu yòu lèi yòu tòng de yāo, shēn shēn de gǎnjué dào zhèng qián bù róngyì.
Lúc tôi lần đầu tiên nhận được tiền công làm thêm, tôi cúi đầu nhìn hai bàn tay bị ngâm trắng,xoa lưng vừa mệt vừa đau, cảm tnhận sâu sắc kiếm tiền thật không dễ dàng.
Wǒ zhēn yǒudiǎnr zhīchí bù zhù le. Yǒu shíhòu wǒ yě xiǎng: Wǒ wèishénme yào chūguó chī zhème dà de kǔ ne? Jìrán fùmǔ zài bùduàn de gěi wǒ jì qián, wǒ jiù kěyǐ bù dǎgōng le, yěxǔ wǒ néng shēnghuó dé qīngsōng yīdiǎnr.
Tôi thật có chút trụ không nổi. Có lúc tôi cũng nghĩ: Tôi vì sao phải ra nước ngoài vất vả thế này chứ? Bố mẹ vẫn gửi tiền cho tôi, tôi có thể không đi làm thêm nữa, có lẽ tôi có thể sống nhẹ nhàng hơn một chút.
Dànshì wǒ hěn qīngchu wǒ fùmǔ dōu shì kào gōngzī shēnghuó de, wǒ bù néng gēn yǒu qián rénjiā de háizi bǐ. Fùmǔ shì yòng yībèizi de jīxù zhīchí wǒ chūguó liúxué de, wǒ zěnme néng zǒngshì kào tāmen ne?
Nhưng tôi rất rõ bố mẹ tôi đều sống dựa vào tiền lương. Tôi không thể so sánh với con nhà có tiền được. Bố mẹ dùng tiền tích góp cả đời ủng hộ tôi ra nước ngoài du học, tôi làm sao có thể luôn dựa vào bố mẹ chứ?
现在我要早点儿独立生活,自己养活自己。毕业以后有了工作,我要让他们生活得更好,过上幸福的老年生活。
Xiànzài wǒ yào zǎodiǎnr dúlì shēnghuó, zìjǐ yǎnghuó zìjǐ. Bìyè yǐhòu yǒu le gōngzuò, wǒ yào ràng tāmen shēnghuó de gèng hǎo,guò shàng xìngfú de lǎonián shēnghuó.
Bây giờ tôi phải sớm sống độc lập, tự nuôi sống bản thân. Sau khi tốt nghiệp có công việc rồi, tôi phải để bố mẹ sống tốt hơn, sống tuổi già hạnh phúc.
Bố mẹ đã nói với tôi: ” Sau khi ra nước ngoài, công việc gì vất vả nhất mệt nhất, con hãy làm từ công việc ấy. Có kinh nghiệm đó, sau này vất vả thế nào con cũng sẽ không sợ nữa.”
2003 nián wǒ zhōngyú dú wán le dàxué, érqiě kǎo shàng le yánjiūshēng. Fùmǔ yào wǒ huí guó guò Chūnjié. Tāmen kàn dào wǒ zhǎng gāo le, zhǎng dà le, fēicháng gāoxìng.
Năm 2003 tôi cuối cũng đã học xong đại học, hơn nữa thi đỗ nghiên cứu sinh. Bố mẹ muốn tôi về nước đón năm mới. Họ nhìn thấy tôi cao hơn, trưởng thành hơn, cực kỳ vui mừng.
妈妈指着我的那双穿旧了的旅游鞋,难过地问我:“孩子,是不是一点钱都没有了?”
Māma zhǐ zhe wǒ de nà shuāng chuān jiù le de lǚyóu xié, nánguò de wèn wǒ:“Háizi, shì bù shì yīdiǎn qián dōu méiyǒu le?”
Mẹ chỉ vào đôi giày du lịch cũ của tôi, buồn rầu hỏi tôi: ” Con trai, có phải hết tiền rồi không?”
“Mā, wǒ yǒu qián. Wǒ bǎ nǐmen jì gěi wǒ de qián hé dǎgōng zhēng de qián dōu cúnzài yínháng lǐ le, yǐhòu nǐmen bù yòng zài gěi wǒ jì le. Wǒ kěyǐ kào dǎgōng lái wánchéng zìjǐ de xuéxí.”
“Mẹ, con có tiền. Con lấy tiền bố mẹ gửi cho con và tiền làm thêm kiếm được đều gửi vào ngân hàng rồi. Sau này bố mẹ không cần gửi tiền cho con nữa. Con có thể dựa vào làm việc mà hoàn thành việc học của mình.”